Lịch sử Đế_quốc_Parthia

Nguồn gốc và sự hình thành

Đồng drachma bạc của Arsaces I của Parthia (cai trị 247–211 trước Công nguyên) với một dòng chữ Hy Lạp với tên của ông (ΑΡΣΑΚΟΥ)

Trước khi Arsaces I của Parthia sáng lập ra nhà Arsaces, ông là thủ lĩnh của người Parni, một bộ lạc người Iran ở Trung Á cổ đại và là một trong một số những bộ tộc du mục trong liên minh Dahae.[15] Người Parni rất có thể đã nói một ngôn ngữ ở miền Đông Iran, trái ngược với các ngôn ngữ tây bắc Iran cùng thời ở Parthia.[16] Vùng đất ban đầu nằm dưới sự cai trị của triều đại Achaemenes, sau đó là đế chế Seleukos.[17] Sau khi chinh phục vùng đất này, người Parni chấp nhận tiếng Parthia là ngôn ngữ chính thức trong triều đình, nói nó cùng với ngôn ngữ ở miền Trung Ba Tư, tiếng Aramaic, Hy Lạp, Babylon, Sogdia và các ngôn ngữ khác trong vùng lãnh thổ đa ngôn ngữ, mà họ sẽ chinh phục.[18]

Lý do tại sao triều đình Arsaces đã chọn năm 247 trước Công nguyên là năm đầu tiên của thời đại Arsaces là không chắc chắn. A.D.H. Bivar kết luận rằng đây là năm vương quốc Seleukos đánh mất quyền kiểm soát Parthia của về tay Andragoras, vị phó vương được bổ nhiệm đã nổi dậy chống lại họ. Do đó, Arsaces I đã "tính thời gian thuộc triều đại của mình" từ thời điểm này khi sự kiểm soát của Seleukos với Parthia đã chấm dứt.[19] Tuy nhiên, Vesta Sarkhosh Curtis khẳng định rằng điều này chỉ đơn giản là năm Arsaces được tôn lên làm tộc trưởng của bộ tộc Parni.[20] Homa Katouzian[21] và Gene Ralph Garthwaite[22] lại cho rằng đó là năm Arsaces chinh phục Parthia và đánh đuổi các quan lại của nhà Seleukos, nhưng Curtis,[20] và Maria Brosius[23] lại cho rằng Andragoras đã không bị lật đổ bởi triều đại Arsaces cho đến năm 238 trước Công nguyên.

Hiện nay vẫn chưa rõ ràng rằng ai là người đã trực tiếp kế vị Arsaces I sau đó,[24] Bivar và Katouzian[21] khẳng định rằng đó là em trai của ông Tiridates I của Parthia, ông ta sau đó đã tiếp tục được kế vị bởi con trai của mình là Arsaces II của Parthia vào năm 211 trước Công nguyên. Tuy nhiên, Curtis[25] và Brosius[26] cho rằng Arsaces II là người đã trực tiếp kế vị Arsaces I, cùng với đó Curtis tuyên bố rằng sự kế vị đã diễn ra vào năm 211 trước Công nguyên và Brosius cho là trong năm 217 trước Công nguyên. Bivar khẳng định rằng năm 138 trước Công nguyên, năm cuối cùng của triều đại Mithridates I, là "niên đại một cách chính xác cho triều đại đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Parthia."[27] Do những khác biệt này và khác, Bivar đã lập ra hai biên niên sử hoàng gia khác nhau và chúng đã được các sử gia chấp nhận. Sau đó, một số quân chủ Parthia còn tự nhận là có dòng dõi Achaemenes. Tuyên bố này đã được chứng minh thông qua các nghiên cứu gần đây về tiền xu và các ghi chép lịch sử, chúng chỉ ra rằng vị vua của cả hai triều đại Achaemenes lẫn Parthia đều mắc một căn bệnh di truyền là U sợi thần kinh (Neurofibromatosis).[28]

Parthia, được tô màu vàng đậm, nằm sát cạnh đế quốc Seleukos (xanh) và Cộng hòa La Mã (màu tía) vào khoảng năm 200 TCN

Vào khoảng thời gian đó, Arsaces đã củng cố các vùng đất của mình ở ParthiaHyrcania bằng cách tận dụng các cuộc xâm lược của Seleukos tiến hành ở vùng lãnh thổ ở phía tây nhằm vào Ptolemaios III Euergetes (khoảng năm 246-222 trước Công nguyên) của Ai Cập. Cuộc chiến này với nhà Ptolemaios, cuộc chiến tranh Syria lần thứ ba (246-241 trước Công nguyên), cũng cho phép Diodotos I nổi loạn và hình thành nên Vương quốc Hy Lạp-Bactria ở Trung Á. Vị vua kế vị tiếp theo đó, Diodotus II, đã thành lập một liên minh với Arsaces nhằm chống lại vương quốc Seleukos, nhưng Arsaces đã tạm thời bị đánh đuổi khỏi Parthia bởi quân đội của Seleukos II Kallinikos (khoảng năm 246-225 trước Công nguyên). Sau một thời gian sống lưu vong giữa những bộ tộc du mục Apasiacae, Arsaces đã tiến hành một cuộc phản công và chiếm lại Parthia.[29] Vị vua kế vị của Seleukos II,[30] Antiochus III Đại đế (cai trị: 222-187 trước Công nguyên), đã không thể ngay lập tức phản công bởi vì quân đội của ông ta đang phải tham gia vào việc dập tắt cuộc nổi loạn của Molon ở Media.[30]

Antiochos III sau đó đã phát động một chiến dịch lớn để chiếm lại ParthiaBactria trong năm 210 hoặc 209 trước Công nguyên. Ông ta đã không thành công, nhưng đã thương lượng một giải pháp hòa bình với Arsaces II. Điều này về sau đã mang đến cho Antiochus danh hiệu basileos.[31] Vương quốc Seleukos đã không thể tiếp tục ngăn cản sự trỗi dậy của Parthia sau khi Cộng hòa La Mã đánh bại họ trong trận Magnesia vào năm 190 trước Công nguyên.[31] Phriapatius của Parthia (cai trị: khoảng năm 191-176 trước Công nguyên) đã kế vị Arsaces II, tiếp đó là Phraates I của Parthia (cai trị: 176-171 trước Công nguyên). Phraates I cai trị Parthia mà không có sự can thiệp thêm bởi vương quốc Seleukos.[32]

Xâm chiếm và củng cố

Phù điêu chạm khắc trên vách đá của vua Mithridates I (cai trị: 171–138 trước Công nguyên), tại Kong-e Ashdar, thành phố Izeh, tỉnh Khūzestān, Iran

Phraates I được ghi nhận là đã mở rộng tầm kiểm soát Parthia vượt qua cửa ải của Alexandros và chiếm đóng Apamea Ragiana, địa điểm này hiện nay là không rõ.[33] Tuy nhiên, sự bành trướng lớn nhất về quyền lực lẫn lãnh thổ của Parthia đã diễn ra trong thời cai trị của người em và là người kế vị Mithridates I của Parthia (cai trị: 171-138 trước Công nguyên),[26] người mà Katouzian đã so sánh với vị vua khai quốc của đế chế Achaemenes Cyrus Đại đế (mất 530 trước Công nguyên).[21]

Quan hệ giữa Parthia và vương quốc Hy Lạp-Bactria trở nên xấu đi sau khi Diodotus II bị lật đổ, khi đó Mithridates xâm chiếm hai tỉnh của vương quốc này, khi đó đang nằm dưới sự cai trị của vua Eucratides I (cai trị: 170-145 trước Công nguyên).[34] Tiếp đó Mithridates chuyển sự chú ý của mình tới các vùng đất của vương quốc Seleukos, ông xua quân xâm lược xứ Media và chiếm đóng thành Ecbatana trong năm 148 hoặc 147 trước Công nguyên; khu vực này gần đây đã mất ổn định sau khi nhà Seleukos đàn áp một cuộc nổi loạn do Timarchus dẫn đầu.[35] Thắng lợi này được tiếp nối bằng việc chiếm đóng thành Babylon ở vùng Lưỡng Hà, và tại đây vào năm 141 trước Công nguyên, Mithridates đã ban hành những tiền xu của mình được đúc tại Seleucia, cố đô của Seleukos.[36] Trong khi Mithridates quay trở về an dưỡng tại Hyrcania, quân đội của ông đã chinh phục các vương quốc ElymaisCharacene, đồng thời chiếm được thành Susa.[36] Vào khoảng thời này, Parthia còn mở rộng quyền lực xa về phía đông tới tận sông Indus.[37]

Trong khi Hecatompylos đã được chọn như là kinh đô đầu tiên của Parthia, Mithridates đã quyết định thiết lập các hoàng cung tại Seleucia, Ecbatana, Ctesiphon và ở thành phố mới được thành lập của mình, Mithradatkert (Nisa, Turkmenistan), đây là nơi mà các lăng mộ của những vị vua Arsaces được xây dựng và duy trì.[38] Ecbatana trở thành nơi cư trú vào mùa hè chính dành cho hoàng gia Arsaces.[39] Ctesiphon đã không trở thành kinh đô chính thức cho đến triều đại của Gotarzes I của Parthia (cai trị: 90-80 trước Công nguyên).[40] Nó trở thành nơi diễn ra lễ đăng quang của hoàng gia và là thành phố đại diện cho triều đại Arsaces, theo Brosius.[41]

Vương quốc Seleukos đã không thể phản kháng ngay lập tức vì tướng Diodotus Tryphon đã tiến hành một cuộc nổi loạn tại kinh đô Antioch vào năm 142 trước Công nguyên.[42] Tuy nhiên, tới năm 140 trước Công nguyên, Demetrius II Nicator đã có thể tiến hành một cuộc kháng chiến chống lại người Parthia ở Lưỡng Hà. Mặc dù đạt được những thành công ban đầu, vương quốc Seleukos đã bị đánh bại và Demetrios bị người Parthia bắt làm tù binh và bị đưa đến Hyrcania. Ở đó Mithridates đã đối xử tử tế với tù nhân của mình; Demetrios thậm chí kết hôn với con gái của ông, Rhodogune của Parthia.[43]

Drachma của Mithridates I của Parthia, cho thấy ông có râu và đội vương miện hoàng gia trên đầu mình

Antiochus VII Sidetes (cai trị:138-129 TCN), em trai của Demetrios, lên ngôi vua Seleukos và kết hôn với Cleopatra Thea. Sau khi đánh bại Diodotus Tryphon, Antiochos khởi xướng một chiến dịch vào năm 130 trước Công nguyên để chiếm lại Lưỡng Hà, bây giờ nằm dưới sự cai trị của Phraates II của Parthia (cai trị: 138-128 TCN). tướng Indates của Parthia đã bị đánh bại dọc theo sông Đại Zab, theo sau là một cuộc nổi dậy địa phương nơi mà tổng đốc người Parthia của Babylon đã bị giết chết. Antiochos chinh phục Babylon và chiếm Susa, tại đây ông ta đã đúc những đồng tiền kim loại của mình.[44] Sau khi quân đội của ông ta tiến vào Media, người Parthia đã cầu hòa, tuy nhiên Antiochos đã từ chối chấp nhận trừ khi triều đại Arsaces phải từ bỏ tất cả các vùng đất của mình trừ Parthia, ngoài ra còn phải trả một khoản cống nạp nặng nề, và thả ngay Demetrios đang bị giam cầm. Nhà Arsaces thả tự do cho Demetrios và đưa ông ta đến Syria, nhưng từ chối các yêu cầu khác.[45] Mùa xuân năm 129 TCN, người Medes tiến hành một cuộc nổi dậy công khai chống lại Antiochos, vì quân đội của ông đã lấy đi hết các nguồn lương thực của người dân địa phương trong mùa đông. Trong khi cố gắng dập tắt các cuộc nổi dậy, đội quân chủ lực của người Parthia đã tiến vào khu vực và giết chết Antiochos trong trận chiến. Thi hài của ông ta đã được đưa trở lại Syria trong một quan tài làm bằng bạc; người con trai tên Seleukos của ông ta đã trở thành một con tim tại triều đình Parthia[46] và một người con gái bị đưa vào hậu cung của Phraates.[47]

Trong khi người Parthia lấy lại được các lãnh thổ bị mất ở phía tây, một mối đe dọa lớn khác xuất hiện ở phía đông. Năm 177-176 trước Công nguyên, người du mục Hung Nô đã đánh đuổi người du mục Nguyệt Chi khỏi quê hương của họ mà bây giờ là tỉnh Cam Túc ở tây bắc Trung Quốc[48]; người Nguyệt Chi sau đó di chuyển về phía tây vào Bactria và xua đuổi các bộ bộ lạc Saka (người Scythia). Người Saka đã bị buộc phải di chuyển xa hơn về phía tây, và nơi mà họ xâm chiếm chính là biên giới phía đông bắc của Đế chế Parthia.[49] Và vì thế Mithridates đã buộc phải rút trở về Hyrcania sau cuộc chinh phục Lưỡng Hà của mình[50]

Một số người Saka đã sẵn sàng tham gia vào quân đội của Phraates chống lại Antiochos. Tuy nhiên, họ đã đến quá trễ để tham gia vào cuộc chiến. Khi Phraates từ chối trả tiền lương của họ, người Saka sau đó nổi loạn, và khi mà ông ta cố gắng dập tắt cuộc nổi loạn với sự trợ giúp của các cựu binh Seleukos, nhưng họ cũng đào ngũ khỏi Phraates và gia nhập với người Saka.[51] Phraates II tiến quân đến chống lại liên quân này, nhưng ông lại tử trận sau đó.[52] Sử gia La Mã, Justin ghi lại rằng vị vua kế vị ông là Artabanus I của Parthia (cai trị: 128-124 TCN) cũng đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại những người du mục ở phía đông. Ông ta tuyên bố rằng Artabanus đã bị người Tochigi sát hại (được xác định là người Nguyệt Chi), mặc dù Bivar tin rằng Justinus coi họ như người Saka.[53] Mithridates II của Parthia (cai trị: 124-90 TCN) sau đó đã phục hồi được các vùng đất bị mất vào tay người Saka ở Sistan.[54]

Tấm vải lụa Trung Quốc từ Mã Vương Đôi, thế kỷ II TCN, Triều đại Nhà Hán;[55]

Sau khi đế chế Seleukos rút khỏi Lưỡng Hà, thống đốc Parthia của Babylon, Himerus, được lệnh của triều đình Arsaces phải chinh phục Characene, mà lúc đó được cai trị bởi Hyspaosines từ Charax Spasinu. Khi việc này không thành công, Hyspaosines xâm lược Babylon vào năm 127 trước Công nguyên và chiếm Seleucia. Tuy nhiên, năm 122 TCN, Mithridates II đa buộc Hyspaosines phải rút khỏi Babylon và biến các vị vua Characene thành chư hầu dưới quyền bá chủ của Parthia.[56] Sau khi Mithridates mở rộng sự cai trị của Parthia xa hơn nữa về phía tây, chiếm Dura-Europos vào năm 113 trước Công nguyên. Ông lại bị lôi kéo vào cuộc xung đột với Vương quốc Armenia.[57] Quân đội của ông đã đánh bại và lật đổ vua Artavasdes I của Armenia trong năm 97 trước Công nguyên, bắt làm con tin người con trai Tigranes của ông ta, người sau này sẽ trở thành Tigranes II "Đại đế" của Armenia (cai trị: 95-55 trước Công nguyên).[58]

Vương quốc Ấn-Parthia, nằm ở Afghanistan, Pakistan, và miền Bắc Ấn Độ, đã xây dựng một liên minh với đế chế Parthia trong thế kỷ I trước Công nguyên.[59] Bivar tuyên bố rằng hai quốc gia từng được coi là có địa vị chính trị ngang nhau.[60] Sau khi nhà triết học Hy Lạp Apollonius của Tyana viếng thăm triều đình dưới triều đại Vardanes I của Parthia (cai trị: 40-47 CN) trong năm 42 CN. Vardanes cung cấp cho ông ta sự bảo vệ của một đoàn caravan khi ông du hành đến Ấn-Parthia. Khi Apollonius tới Taxila, kinh đô Ấn-Parthia, người chỉ huy đoàn caravan đọc thánh chỉ của Vardanes, có lẽ bằng văn bản trong tiếng Parthia, cho một quan chức Ấn Độ phải đối xử với Apollonius bằng sự mến khách nhất.[59]

Sau những chuyến thăm viếng ngoại giao của Trương Khiên tới Trung Á dưới triều Hán Vũ Đế của nhà Tây Hán (trị vì: 141 - 87 TCN), Đế chế Tây Hán của Trung Quốc đã gửi một phái đoàn đến triều đình của Mithridates II năm 121 trước Công nguyên. Phái đoàn sứ thần Tây Hán đã mở quan hệ thương mại chính thức với Parthia thông qua con đường tơ lụa nhưng đã không đạt được một liên minh quân sự chống lại liên minh Hung Nô như mong muốn.[61] Đế chế Parthia làm giàu bằng cách đánh thuế thương mại những đoàn tơ lụa Á Âu, loại hàng hóa xa hoa có giá cao nhất được người La Mã mua[62] Ngọc trai có giá trị cao được nhập từ Trung Quốc, trong khi Trung Quốc mua các gia vị của Parthia, nước hoa, và trái cây [63] động vật ngoại quốc cũng được đưa tới như là quà tặng từ nhà Arsaces tới triều đình Nhà Hán; trong năm 87, vua Pacorus II của Parthia đã gửi tặng sư tử và linh dương Ba Tư cho vua Chương Đế nhà Đông Hán (cai trị: 75-88) [64] Bên cạnh lụa tơ tằm, hàng hóa Parthia được mua bởi các thương gia La Mã bao gồm sắt từ Ấn Độ, gia vị, và đồ da tốt.[65] Những đoàn Caravan du hành thông qua đế chế Parthia mang thuỷ tinh Tây Á và đôi khi là hàng cao cấp của La Mã tới Trung Quốc.[66] Những thương nhân từ Sogdia, nói một ngôn ngữ Đông Iran, đóng vai trò trung gian chính trong ngành thương mại lụa trọng yếu này giữa Parthia và Nhà Hán.[67]

La Mã và Armenia

Drachma của Mithridates II của Parthia (cai trị: 124–90 TCN)

Người Nguyệt Chi thuộc đế quốc Quý Sương ở miền bắc Ấn Độ đã đảm bảo an ninh biên giới phía đông Parthia.[68] Như vậy, từ giữa thế kỷ I TCN trở đi, triều đình Arsaces tập trung vào việc đảm bảo biên giới phía tây, chủ yếu là chống lại La Mã[68]. Một năm sau khi Mithridates II chinh phục Armenia, Lucius Cornelius Sulla, tổng đốc tỉnh Cilicia của La Mã, đã gặp mặt với Orobazus, sứ thần của Parthia ở sông Euphrates. Cả hai đồng ý rằng dòng sông sẽ được coi như là biên giới giữa Parthia và La Mã, mặc dù Rose Mary Sheldon cho rằng Sulla chỉ có thẩm quyền truyền đạt lại những điều khoản này trở lại Roma.[69]

Bất chấp thỏa thuận này, trong năm 93 hoặc 92 TCN Parthia đã tham gia vào một cuộc chiến tranh ở Syria chống lại lãnh đạo bộ tộc Laodice và đồng minh Seleukos của bà là Antiochus X Eusebes (cai trị: 95-92 TCN?),[70] đã bị giết chết sau này.[70] Khi một trong những quốc vương Seleukos cuối cùng, Demetrius III Eucaerus, cố gắng bao vây Beroea (hiện nay là Aleppo), Parthia đã gửi quân trợ giúp cho các cư dân và Demetrios đã bị đánh bại.[71]

Drachma của vua Orodes I (cai trị. 90–80 TCN)

Tiếp sau triều đại của Mithridates II, Gotarzes I đã cai trị Babylon, trong khi Orodes I (cai trị 90-80 TCN) cai trị Parthia một cách riêng biệt.[72] Hệ thống này làm suy yếu chế độ quân chủ Parthia[72], và cho phép Tigranes II của Armenia xáp nhập vùng đất của Parthia ở phía tây vùng Lưỡng Hà. Vùng đất này sẽ không quay trở về tay của người Parthia cho đến tận triều đại của Sanatruces của Parthia (cai trị: 78-71 TCN)[73]. Sau khi cuộc chiến tranh Mithridatic lần thứ ba bùng nổ, Mithridates VI của Pontus (cai trị: 119-63 TCN), một đồng minh của Tigranes II của Armenia, đã yêu cầu sự trợ giúp từ Parthia nhằm chống lại người La Mã, nhưng Sanatruces từ chối giúp đỡ.[74] Khi viên chỉ huy La Mã Lucullus hành quân tới kinh đô Tigranocerta của Armenia trong năm 69 TCN, Mithridates VI và Tigranes II đã yêu cầu sự trợ giúp của Phraates III của Parthia. (cai trị: 71-58). Phraates đã không gửi quân cứu viện và sau khi Tigranocerta thất thủ, ông ta đã tái khẳng định với Lucullus rằng Euphrates chính là ranh giới giữa Parthia và La Mã.[75]

Tigranes Trẻ, con trai của Tigranes II của Armenia, sau khi không thể cướp ngôi vua Armenia từ cha mình. Ông này đã bỏ trốn sang cung đình của Phraates III và thuyết phục ông ta đem tiến quân đánh kinh đô mới của Armenia tại Artaxarta. Khi cuộc bao vây này không thành công, Tigranes Trẻ một lần nữa bỏ trốn, lần này là tới chỗ vị tướng La Mã là Pompey. Ông ta hứa hẹn với Pompeius rằng mình sẽ đóng vai trò như là một người dẫn đường xuyên qua Armenia, nhưng khi Tigranes II quy phục La Mã như là một vị vua chư hầu, Tigranes trẻ được đưa đến Roma làm con tin [76] Phraates đã yêu cầu Pompey giao lại Tigranes Trẻ cho ông, nhưng Pompeius từ chối. Để trả đũa, Phraates đã phát động một cuộc xâm lược vào Corduene (đông nam Thổ Nhĩ Kỳ), tại đây theo hai mâu thuẫn giữa những ghi chép của La Mã, chấp chính quan La Mã Lucius Afranius đã buộc người Parthia rút lui bằng một trong hai cách quân sự hay ngoại giao.[77]

[[Tập|thumb|left|upright|Tượng cẩm thạch của tam hùng Marcus Licinius Crassus, người bị Surena đánh bại trong trận Carrhae]]Phraates III đã bị ám sát bởi những người con trai của ông là Orodes II của ParthiaMithridates III của Parthia, nhưng sau đó Orodes quay lại đánh Mithridates, buộc ông ta phải chạy trốn khỏi Media để tới tỉnh Syria của La Mã[78]. Aulus Gabinius, tổng đốc tỉnh Syria của La Mã, đã tiến quân trợ giúp cho Mithridates tới tận Euphrates, nhưng sau đó ông ta đã phải quay lại để hỗ trợ Ptolemaios XII Auletes (cai trị: 80-58, 55-51 TCN). dập tắt cuộc nổi loạn ở Ai Cập [79] Mặc dù mất sự ủng hộ La Mã dành cho mình, Mithridates đã thành công trong việc chinh phục Babylon, và đúc tiền xu ở Seleucia cho đến năm 54 trước Công nguyên. Trong năm đó, viên tướng của Orodes, chỉ được biết đến với tên gọi là Surena, đã chiếm lại Seleucia, và Mithridates đã bị hành quyết.[80]

Marcus Licinius Crassus, một trong Tam hùng, bây giờ là tổng đốc tỉnh của Syria, đã phát động một cuộc xâm lược vào Parthia trong năm 53 TCN nhằm hỗ trợ muộn màng cho Mithridates.[81] Khi quân đội của ông ta hành quân đến Carrhae (ngày nay là Harran, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ), Orodes II xâm lược Armenia, chia cắt sự hỗ trợ từ đồng minh của La Mã là Artavasdes II của Armenia (cai trị: 53-34 TCN). Orodes thuyết phục Artavasdes đi đến một liên minh hôn nhân giữa Thái tử Pacorus I của Parthia (mất năm 38 trước Công nguyên) với em gái của Artavasdes.[82]

Surena, với một đội quân hoàn toàn là kị binh, tiến quân đến để chống trả Crassus [83] Surena có 1.000 cataphract, trang bị thương, và 9.000 kị cung ít hơn với tỉ lệ khoảng 4-1 so với của quân đội Crassus, bao gồm bảy quân đoàn La Mã và quân trợ chiến bao gồm kị binh người Gaul và bộ binh nhẹ.[84] Họ sử dụng chiến thuật phát bắn của người Parthia, bằng cách sẽ giả vờ rút lui và chỉ quay người trở lại để bắn vào đối thủ của họ. Chiến thuật này, kết hợp với việc sử dụng loại cung tên hỗn hợp nặng trên đồng bằng phẳng đã đánh tan tác bộ binh của Crassus[85] Với khoảng 20.000 người La Mã chết. Khoảng 10.000 bị bắt, và khoảng 10.000 người khác trốn thóat về phía tây, Crassus bỏ chạy vào vùng nông thôn của Armenia[86]. Ở vị trí đứng đầu quân đội của mình, Surena tiếp cận Crassus, cho phép một cuộc thương lượng, mà Crassus chấp nhận. Tuy nhiên, ông đã thiệt mạng khi một trong những sĩ quan cấp dưới của mình, nghi ngờ đây là một cái bẫy, đã cố gắng ngăn chặn ông ta khi đi vào trại của Surena.[87]

Đồng aurei của La Mã in hình chân dung của Marcus Antonius (trái) và Octavianus (phải), được phát hành vào năm 41 TCN để kỷ niệm việc thành lập chế độ Tam Hùng lần thứ hai của bộ ba Octavianus, Antonius và Marcus Lepidus trong năm 43 TCN

Thất bại của Crassus tại Carrhae là một trong những thất bại quân sự tồi tệ nhất trong lịch sử quân sự của La Mã.[70] Chiến thắng của Parthia đã củng cố danh tiếng của nó như là một đối trọng hùng mạnh cân bằng quyền lực với La Mã [88] Cùng những sĩ quan tuỳ tùng, những tù binh và chiến lợi phẩm La Mã quý giá, Surena đã quay về Seleucia cách đó khoảng 700 km (430 mi) để ăn mừng chiến thắng ở đó. Tuy nhiên, do lo sợ rằng Surena có tham vọng một ngày nào đó sẽ cướp ngôi nhà Arsaces, Orodes đã hành quyết Surena chẳng bao lâu sau chiến thắng này.[70]

Được khuyến khích bởi chiến thắng trước Crassus, Parthia đã cố gắng để đánh chiếm các vùng lãnh thổ mà người La Mã nắm giữ ở Tây Á.[89] Thái tử Pacorus I và vị tướng của ông Osaces đã đột kích vào Syria xa tới tận Antioch trong năm 51 TCN, nhưng họ đã bị đẩy lùi bởi Gaius Cassius Longinus, ông ta đã phục kích và giết chết Osaces[90]. Nhà Arsaces đã ở cùng phe với Pompey trong cuộc nội chiến của ông ta chống lại Julius Caesar và thậm chí còn gửi quân để hỗ trợ các lực lượng chống hoàng đế Caesar trong trận Philippi năm 42 trước Công nguyên[91]. Quintus Labienus, một vị tướng trung thành của Cassius và Brutus, đã ở cùng phe với Parthia chống lại chế độ tam hùng lần thứ hai trong năm 40 trước Công nguyên, và năm sau ông ta xâm lược Syria cùng với Pacorus I.[92] Tam hùng Marcus Antonius đã không thể chỉ huy người La Mã phòng thủ chống lại Parthia do ông ta đã khởi hành đến Ý, tại đây ông ta tập hợp các lực lượng của mình để đối đầu với đối thủ của ông là Octavianus và cuối cùng thì hai bên cũng đã tiến hành hòa đàm tại Brundisium [93] Sau khi Syria bị chiếm đóng bởi quân đội của Pacorus, Labienus đã tách khỏi quân chủ lực của Parthia và xâm lược Anatolia trong khi Pacorus cùng viên tướng Barzapharnes của ông ta xâm chiếm vùng Cận đông của La Mã.[92] Họ chinh phục tất cả các thành trì dọc theo bờ biển Địa Trung Hải xa xuống phía nam tới tận Ptolemais (hiện nay là Acre, Israel), với ngoại lệ duy nhất là Týros[94]Judea, lực lượng thân La Mã của giáo sĩ tối cao Hyrcanus II, Phasael,và Herod đã bị đánh bại bởi người Parthia và đồng minh Do Thái của họ Antigonos II Mattathias (cai trị: 40-37 trước Công nguyên), sau này là vua của xứ Judea trong khi Herod chạy trốn tới pháo đài của ông tại Masada [92]

Bất chấp có được những thành công này, người Parthia đã nhanh chóng bị đuổi ra khỏi Cận đông bởi một cuộc phản công của La Mã. Publius Ventidius Bassus, một viên tướng dưới quyền Marcus Antonius đã đánh bại và sau đó hành quyết Labienus tại trận cánh cổng Cilicia (trong tỉnh Mersin ngày nay, Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm 39 trước Công nguyên [95] Một thời gian ngắn sau đó, một đạo quân Parthia ở Syria dưới sự chỉ huy của tướng Pharnapates đã bị đánh bại bởi Ventidius ở trận đèo Amanus [95] Kết quả là, Pacorus I tạm thời rút khỏi Syria. Khi quay trở lại vào mùa xuân năm 38 trước Công nguyên, ông ta đã phải đối mặt với Ventidius trong trận núi Gindarus, phía đông bắc của Antioch. Pacorus đã tử trận trong trận đánh này, và quân đội của ông ta phải rút lui qua sông Euphrates. Cái chết của ông ta đã thúc đẩy một cuộc khủng hoảng liên tiếp, trong đó Orodes II đã chọn Phraates IV của Parthia (khoảng năm 38-2 TCN) là người kế vị mới của mình.[96]

Drachma của Phraates IV của Parthia (cai trị 38–2 TCN)

Sau khi lên ngôi vua, Phraates IV đã loại bỏ mọi đối thủ cạnh tranh ngai vàng bằng cách giết chết và lưu đày anh em của mình [97] Một trong số họ, Monaeses bỏ trốn sang chỗ Antonius và thuyết phục ông ta xâm lược Parthia.[98] Antonius đánh bại đồng minh Judea của Parthia, Antigonus vào năm 37 TCN, và đưa Herod lên làm vua chư hầu thay thế vị trí của ông ta. Năm sau, khi Antonius hành quân đến Erzurum, Artavasdes II của Armenia một lần nữa đổi phe bằng cách gửi thêm quân cho Antonius. Antonius xâm lược Media Atropatene (hiện nay là Azerbaijan),lúc đó cai trị bởi đồng minh của Parthia là Artavasdes I của Media Atropatene, với ý định chiếm lấy kinh đô Praaspa, vị trí của đó ngày nay vẫn chưa biết. Tuy nhiên, Phraates IV đã phục kích hậu quân phía sau của Antonius, phá hủy một thiết bị phá cổng khổng lồ được dùng cho cuộc bao vây Praaspa, sau điều này, Artavasdes bỏ rơi lực lượng của Antonius [99] Người Parthia truy đuổi và quấy rối quân đội Antonius khi họ bỏ chạy đến Armenia. Cuối cùng thì đám tàn quân của Antonius cũng rút về được Syria.[100] Sau này, Antonius đã lừa gạt Artavasdes II vào một cái bẫy với những lời hứa của một liên minh hôn nhân. Ông ta đã bị cầm tù vào năm 34 trước Công nguyên, tiếp đó được đưa về La Mã và bị hành quyết [101]. Antonius đã cố gắng thiết lập một liên minh với Artavasdes I của Media Atropatene, khi mối quan hệ của ông này với Phraates IV gần đây đã trở nên căng thẳng. Tuy nhiên điều này đã bị hủy bỏ khi Antonius và lực lượng của ông rút khỏi Armenia trong năm 33 trước Công nguyên; họ thóat khỏi một cuộc xâm lược của Parthia trong khi đối thủ của Antonius, Octavianus tấn công lực lượng của ông ở phía tây [101] Sau khi Antonius đi khỏi, đồng minh Parthia là Artaxias II đã lại chiếm lấy ngai vàng của Armenia.

Hòa bình với La Mã, âm mưu triều đình và sự giao thiệp với những vị tướng Trung Quốc

Xem thêm: Pax Romana

Sau thất bại của Antonius trong trận Actium vào năm 31 trước Công nguyên, Octavianus củng cố quyền lực chính trị của ông và trong năm 27 trước Công nguyên ông được ban tên là Augustus bởi viện nguyên lão La Mã, trở thành hoàng đế La Mã đầu tiên. Khoảng thời gian này, Tiridates II của Parthia đã lật đổ Phraates IV một thời gian ngắn, nhưng Phraates IV đã có thể nhanh chóng thiết lập lại sự cai trị của ông với sự trợ giúp của những người du mục Scythia[102] Tiridates chạy trốn tới chỗ những người La Mã, đem theo một trong những con trai Phraates đi cùng với ông ta. Trong các cuộc đàm phán được tiến hành năm 20 trước Công nguyên, Phraates sắp xếp cho việc giải thóat con trai bị bắt cóc của mình. Đổi lại, người La Mã đã nhận được các cờ hiệu của quân đoàn lê dương bị cướp mất tại Carrhae trong năm 53 trước Công nguyên, cũng như bất kỳ tù nhân chiến tranh nào còn sót lại [103] Parthia xem cuộc trao đổi này như là một giá nhỏ để trả tiền chuộc lại hoàng tử [104] Augustus ca ngợi sự trở lại của những cờ hiệu này như là một thắng lợi chính trị trước Parthia; cuộc tuyên truyền này đã được cử hành bằng việc đúc tiền xu mới, xây dựng một ngôi đền mới để cất giữ những cờ hiệu này và thậm chí ngay cả trên miếng giáp ngực của bức tượng Augustus của Prima Porta.[105]

Một cái nhìn cận cảnh trên ngực trên bức tượng Augustus tại Prima Porta, cho thấy một người đàn ông Parthian dâng lên Augustus "con đại bàng" vốn bị Marcus Licinius Crassus đánh mất tại Carrhae

Cùng với hoàng tử, Augustus cũng đã tặng Phraates IV một nữ nô lệ người Ý, người sau này trở thành nữ hoàng Musa của Parthia. Để đảm bảo rằng Phraataces con bà sẽ thừa kế ngai vàng mà không có sự cố, Musa thuyết phục Phraates IV giao những người con trai khác của ông cho Augustus làm con tin. Một lần nữa, Augustus sử dụng điều này để tuyên truyền mô tả sự quy phục của Parthia trước La Mã, liệt kê nó như là một thành tựu tuyệt vời trong Res Gestae Divi Augusti [106] Khi Phraataces lên ngôi là Phraates V của Parthia (khoảng năm 2 TCN - 4 CN), Musa kết hôn với con trai riêng của mình và cai trị cùng với ông ta. Quý tộc Parthia, không chấp nhận mối quan hệ loạn luân và khái niệm của một vị vua không có dòng máu Arsaces, họ đã lật đổ ông ta [107] Người kế vị của Phraates, Orodes III của Parthia chỉ ngồi trên ngai vàng được có hai năm và ông ta đã được kế vị bởi Vonones I của Parthia, vị vua này đã chấp nhận nhiều phong cách La Mã trong thời gian ở La Mã. Tầng lớp quý tộc Parthia, tức giận bởi cảm tình của Vonones cho người La Mã, đã quay ra ủng hộ một đối thủ tranh đoạt ngai báu khác, Artabanus II của Parthia (khoảng 10-38 CN), ông ta cuối cùng đã đánh bại được Vonones và buộc vị vua này phải sống lưu vong ở tỉnh Syria của La Mã [108].

Trong suốt triều đại của Artabanus II, hai dân thường Do Thái và là anh em ruột, Anilai và Asinai từ Nehardea (gần Fallujah hiện nay, Iraq),[109] đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại thống đốc Parthia của Babylon. Sau khi đánh bại ông này, cả hai đã được trao quyền cai trị khu vực bởi Artabanus II, bởi vì ông lo sợ các cuộc nổi loạn ở những nơi khác nữa[110]. Người vợ Parthia của Anilai đã đầu độc Asinai vì sợ ông ta sẽ tấn công Anilai về cuộc hôn nhân của ông với một người ngoại giáo. Sau này, Anilai bị lôi kéo vào một cuộc xung đột vũ trang với một con rể của Artabanus, người cuối cùng đã đánh bại ông ta.[111] Với chế độ của người Do Thái bị loại bỏ, cư dân bản địa Babylon đã bắt đầu quấy rối cộng đồng Do Thái địa phương, buộc họ phải di cư sang Seleucia. Khi thành phố này nổi dậy chống lại sự cai trị của Parthia trong năm 35-36 CN, người Do Thái đã bị trục xuất lần nữa, lần này bởi người Hy Lạp địa phương và người Aramaea. Người Do Thái lưu vong chạy trốn đến Ctesiphon, Nehardea, và Nisibis [112].

Một đồng denarius được đúc dưới thời Augustus, bên trái (mặt trước) là hình nữ thần Feronia, mặt sau là một người Parthia đang quỳ dưng những cờ hiệu La Mã chiếm được tại trận Carrhae[113]

Mặc dù đang hòa bình với Parthia, La Mã vẫn can thiệp vào các vấn đề của nó. Hoàng đế La Mã Tiberius (14-37CN) đã tham gia vào một âm mưu của Pharasmanes I của Iberia nhằm đưa em trai của ông ta là Mithridates ngồi lên ngai vàng của Armenia bằng việc ám sát vị vua đồng minh với Parthia của Armenia [114] Artabanus II đã cố gắng và thất bại trong việc khôi phục lại quyền kiểm soát Armenia của Parthia, điều này khiến cho tầng lớp quý tộc nổi loạn chống lại ông và buộc ông phải chạy trốn tới Scythia. Người La Mã đã thả một hoàng tử con tin, Tiridates III của Parthia, để cai trị quốc gia này như là một đồng minh của La Mã. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Artabanus đã cố gắng để lật đổ Tiridates khỏi ngai vàng bằng cách sử dụng quân đội từ Hyrcania [115] Sau khi Artabanus qua đời trong năm 38 CN, một cuộc nội chiến lâu dài xảy ra sau đó giữa người thừa kế hợp pháp Vardanes I của Parthia và em trai của ông ta là Gotarzes II của Parthia.[116] Sau khi Vardanes bị ám sát trong một cuộc đi săn, giới quý tộc Parthia kêu gọi Hoàng đế La Mã Claudius(cai trị: 41-54 CN) trong năm 49 CN phóng thích vị hoàng tử con tin Meherdates nhằm thách thức Gotarzes. Điều này đem đến phản ứng ngược lại khi Meherdates bị phản bội bởi tổng đốc của EdessaIzates bar Monobaz của Adiabene, ông bị bắt và mang nộp cho Gotarzes, tuy nhiên ông đã được tha mạng với cái giá phải trả là đôi tai của mình, một hành động nhằm để loại bỏ ông khỏi việc kế vị ngai vàng [117]

Vào năm 97, quan cai trị Tây VựcBan Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã.[118] Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã.[119] Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe.[120] William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á.[118] Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168).[121] Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái LanBiển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.[122]

Tiếp tục cuộc chiến với La Mã và sự suy yếu của Parthia

Bản đồ các cuộc tiến quân trong hai năm đầu của cuộc Chiến tranh La Mã–Parthia (58–63) trên khắp Vương quốc Armenia, trình bày chi tiết về cuộc tấn công của người La Mã vào Armenia và chiếm toàn bộ quốc gia này dưới sự chỉ huy của Gnaeus Domitius Corbulo

Sau khi vua Iberia Pharasmanes I phái Rhadamistus con trai của ông (khoảng năm 51-55 CN) xâm lược Armenia để lật đổ vị vua chư hầu La Mã, vua Mithridates, Vologases I của Parthia (khoảng 51-77 CN) đã lên kế hoạch xâm lược và đưa em trai của mình, sau đó là Tiridates I của Armenia, lên ngai vàng [123]. Rhadamistus cuối cùng đã bị đánh đuổi khỏi ngai vàng, và sau đó bắt đầu triều đại của Tiridates, người Parthia sẽ giữ lại kiểm soát khá vững chắc trên toàn Armenia cho dù bị gián đoạn một thời gian ngắn thông qua triều đại Arsaces của Armenia.[124] Ngay cả sau sự sụp đổ của Đế chế Parthia, dòng dõi Arsaces vẫn tồn tại thông qua các vị vua Armenia.[125] Tuy nhiên, dòng dõi Arsaces không chỉ tiếp tục tồn tại thông qua người Armenia, nó vẫn tiếp tục thông qua các vị vua nhà Arsaces Iberia của Gruzia và thông qua trong qua triều đại Arsaces của Albania Kavkaz nhiều thế kỷ sau đó.[126]

Khi Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I trong năm 55 CN, Vologases đã phải rút lực lượng của mình từ Armenia về. Người La Mã đã nhanh chóng cố gắng lấp đầy khoảng trống chính trị để lại [127] Trong cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63 CN, tướng Gnaeus Domitius Corbulo đã đạt được một số thành công quân sự chống lại Parthia khi đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã.[128] Tuy nhiên, người kế tục của Corbulo, Lucius Caesennius Paetus bị đánh cho đại bại bởi quân Parthia và chạy trốn khỏi Armenia.[129] Sau một hiệp ước hòa bình, Tiridates I du hành tới Naples và Roma trong năm 63 CN. Tại cả hai nơi hoàng đế La Mã Nero (khoảng 54-68 CN) cộng nhận ngôi vua Armenia của ông bằng cách đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông.[130]

Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 CN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã[131] Trong khi đó, AugustusNero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma[132]. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ[133] Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ.[134] Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược [135]. Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.[136]

Một người lính Parthia (phải) đội một chiếc mũ Phrygia, được miêu tả là một tù binh chiến tranh đang bị trói bởi một người La Mã (trái); Khải hoàn môn Septimius Severus, Roma, 203 CN

Tình trạng thù địch giữa Roma và Parthia được tiếp tục khi Osroes I của Parthia (khoảng năm 109-128 CN) đã lật đổ vua Tiridates của Armenia và thay thế ông ta bởi Axidares, con trai của Pacorus II, mà không có sự đồng ý của Roma.[137] Hoàng đế La Mã Trajan (cai trị: 98-117 CN) đã bắt được ứng cử viên Parthia tiếp theo cho ngai vàng, Parthamasiris, và giết ông ta trong năm 114 CN, thay vào đó biến Armenia thành một tỉnh La Mã[138] Quân đội của ông, chỉ huy bởi Lusius Quietus,còn chiếm Nisibis. Việc chiếm đóng nó là cần thiết để đảm bảo tất cả các tuyến đường chính qua miền phía bắc đồng bằng Lưỡng Hà [139] Năm sau, Trajan xâm chiếm Lưỡng Hà và gặp một ít kháng cự chỉ tới từ Meharaspes của Adiabene, vì lúc đó Osroes đang tham gia vào một cuộc nội chiến ở phía đông với Vologases III của Parthia [140]. Trajan đã trải qua mùa đông năm 115-116 tại Antioch, sau đó ông lại tiếp tục chiến dịch của mình vào mùa xuân. Tiến quân tới sông Euphrates, ông chiếm Dura-Europos, kinh đô Ctesiphon[141]Seleucia và thậm chí chinh phục Characene, tại nơi đây ông xem những con tàu khởi hành đến Ấn Độ từ Vịnh Ba Tư.[142]

Trong những tháng cuối năm 116 CN, Trajan chiếm được thành phố Susa của Ba Tư. Khi Sanatruces II của Parthia tập hợp lực lượng ở miền đông Parthia để thách thức những người La Mã, người anh em họ của ông Parthamaspates của Parthia phản bội và giết ông ta: Trajan lập ông ta làm vua mới của Parthia [143] Đế chế La Mã sẽ không bao giờ tiến xa về phía đông như vậy nữa.

Trên đường trờ về của Trajan, các cư dân Babylon nổi dậy chống lại quân đồn trú La Mã [144] Trajan đã buộc phải rút lui khỏi Lưỡng Hà trong năm 117 CN, sau đó còn giám sát một cuộc bao vây Hatra thất bại trên đường rút quân của mình.[145] Sự rút lui của ông-trong ý định- chỉ là tạm thời, bởi vì ông muốn quay trở lại tấn công Parthia vào năm 118 CN và "làm cho cuộc chinh phục Parthia trở thành sự thực," [146] nhưng Trajan mất đột ngột trong tháng 8 năm 117CN.

Trong chiến dịch của ông, Trajan được nhận danh hiệu Parthicus từ viện nguyên lão và tiền xu được đúc công bố cuộc chinh phục Parthia.[147] Tuy nhiên, chỉ có các nhà sử học thế kỷ IV CN Eutropius và Festus khẳng định rằng ông đã cố gắng để thiết lập một tỉnh La Mã ở miền nam Lưỡng Hà[148]

Vị vua kế vị Trajan, Hadrianus (cai trị 117-138 CN) khẳng định lại biên giới La Mã-Parthia ở Euphrates, quyết định không xâm lược Mesopotamia do nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã.[149] Parthamaspates chạy trốn sau khi Parthia nổi dậy chống lại ông, nhưng người La Mã đã đưa ông lên làm vua của Osroene. Osroes I chết trong cuộc xung đột của ông ta với Vologases III, sau này đã được kế vị bởi Vologases IV của Parthia (cai trị: 147-191 CN) đã mở ra một thời kỳ hòa bình và ổn định [150] Tuy nhiên, cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 161-166 CN bắt đầu khi Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 CN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 CN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 CN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 CN.[151]

Người La Mã chiếm và thiêu trụi Seleucia cùng với Ctesiphon, nhưng họ buộc phải rút lui khi những người lính La Mã mắc một căn bệnh chết người (có thể là bệnh đậu mùa) mà sớm tàn phá thế giới La Mã [152] Mặc dù họ rút lui, từ thời điểm này về sau, thành phố Dura-Europos vẫn còn trong tay La Mã.[153]

Khi Hoàng đế La Mã Septimius Severus (cai trị: 193-211 CN) xâm chiếm Lưỡng Hà năm 197 CN trong thời cai trị của Vologases V của Parthia (cai trị: 191-208 CN), người La Mã lại một lần nữa tiến tới Euphrates và chiếm Seleucia cùng Ctesiphon. Sau khi nhận danh hiệu Parthicus Maximus, ông rút lui vào cuối năm 198, và giống như Trajan một lần ông cũng thất bại để chiếm Hatra trong một cuộc vây hãm.[153]

Khoảng năm 212 CN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 CN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 CN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc.[154] Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.

Phù điêu của Nhà Sassanid tại Naqsh-e Rustam mô tả cảnh tấn phong Ardashir I

Caracalla bị ám sát năm tiếp theo trên đường tới Carrhae bởi binh sĩ của mình.[154] Sau thất bại này, Parthia tiến hành hòa giải với Macrinus (cai trị: 217-218) nơi người La Mã phải cống nạp cho Parthia hơn 200 triệu denarii với quà tặng bổ sung.[155]

Tuy nhiên, đế chế Parthia, bị suy yếu do xung đột nội bộ và cuộc chiến với la Mã, đã sớm bị thay thế bởi đế chế Sassanid. Thực tế trong thời gian ngắn sau đó, vua Ardahir I, một vị vua địa phương gốc Iran của Persis (tỉnh Fars ngày nay, Iran) từ Estakhr bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ xung quanh, một sự thách thức với luật lệ của nhà Arsaces [156] Ông đã đối mặt Artabanus IV trong trận chiến, ngày 28 tháng 4 năm 224 CN có lẽ tại một địa điểm gần Isfahan, đánh bại ông ta và thành lập đế chế Sassanid [156] tuy nhiên, có bằng chứng, cho thấy Volageses VI tiếp tục ban hành tiền xu tại Seleucia tới năm 228 CN.[157]

Nhà Sassanid sẽ không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã dưới thời trị vì của Khosrau II (r.590-628 CN) [158] Tuy nhiên, họ sẽ mất các vùng lãnh thổ này vào tay Heraclius, hoàng đế La Mã cuối cùng trước khi các cuộc chinh phục của người Ả Rập bắt đầu. Dù gì đi chăng nữa, nhà Sassanid đã kế tục vai trò như là đối thủ chính của người La Mã trong suốt 400 năm.[159][160][161]

Những nguồn bản địa và các nguồn khác

Đồ trang sức bằng vàng thời Parthia được tìm thấy tại một địa điểm chôn cất tại Nineveh (gần Mosul, Iraq ngày nay)

Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia[162] Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 CN)[163] Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran.[164] Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic.[165] Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.[166]

Một chuỗi hạt và bùa Sarmatia-Parthia bằng vàng, thế kỷ thứ II của Công Nguyên. Hiện thuộc sở hữu của Quỹ Nghệ thuật Tamoikin

Những nguồn tài liệu bản địa giá trị nhất để tái tạo thời gian chính xác của triều đại của các vị vua Arsaces là những đồng tiền kim loại drachma, được ban hành bởi mỗi vị vua khác nhau.[167] Theo các nhà sử học Geo Widengren, những đồng tiền này đại diện cho một "quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản".[168] Những nguồn tài liệu khác của Parthia được sử dụng để tái tạo lại niên đại bao gồm những tấm bảng thiên văn có chứa chữ hình nêm và những lời ghi (tiếng Anh: colophon) được phát hiện ở Babylonia.[169] Những tài liệu văn bản bản địa cũng bao gồm các văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrusđồ gốm.[168] Ví dụ, ở kinh đô Mithradatkert/Nisa (Turkmenistan ngày nay) của Parthia của, các kho chứa đồ gốm lớn đã được tìm thấy cung cấp thông tin về việc bán và lưu giữ các vật phẩm như rượu vang.[170] Những tài liệu viết bằng giấy da được tìm thấy tại các địa điểm như Dura-Europos, đã cung cấp những thông tin có giá trị về chính quyền Parthia, bao gồm các vấn đề như thuế má, chức tước quân sự và tổ chức cấp tỉnh.[171]

Chuỗi hạt bằng vàng, thế kỷ thứ II của Công Nguyên, Iran, Bảo tàng Reza AbbasiMột cây đèn dầu bằng sứ, tỉnh Khūzestān, Iran, Bảo tàng quốc gia Iran

Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến.[172] Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia[173] Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia.[174] Apollodorus xứ ArtemitaArrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác.[175] Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia.[176] Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.[177]

Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc.[178] Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia,[179] mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia.[180] Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: ), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia.[181] Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này.[182] Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban CốBan Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp.[183] Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý.[178] Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia.[184] Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.[185]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Parthia http://www.iranchamber.com/art/articles/art_of_par... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.parthia.com/ http://jwsr.pitt.edu/ojs/index.php/jwsr/article/vi... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20832372 http://www.persianempire.info/parthia9.htm http://www.phaptangpgvn.net/WEBNCPGTV/NCPGTV_8.htm